Nuôi cá chình thịt Bình Định

đào tạo seo - nuôi cá chình - Thép tấm

Thứ Ba, 22 tháng 12, 2015

Thiết kế bể xi măng nuôi cá chình bông cho năng suất cao

Nuôi chình bông đạt năng suất cao không khó, nên giữ cho nước nuôi trong bể xi măng trong lành, tạo thêm oxy, cho ăn đầy đủ, cá chình tiêu thụ thức ăn không nhiều lắm nên tiết kiệm chi phí cho nhà nông.

Theo kỹ sư Ngô Thị Mỹ Hạnh, cán bộ quản lý môi trường và nguồn lợi thủy sản xã An Ninh Tây (Tuy An, Phú Yên) để chuẩn bị nuôi cá chình bông, đầu tiên cần làm tốt khâu chọn giống. Cỡ giống tốt nhất khoảng 100g/con, khỏe mạnh, đồng đều, màu sắc tươi sáng, không bị bệnh.
Giống mua về để ổn định nhiệt độ trong khoảng 15 phút, sau đó thả vào trong bể nhỏ bơm sẵn nước (30cm), sục khí mạnh; tắm nhanh qua nước muối (30‰) từ 3 đến 5 phút rồi thả vào nơi đầu nguồn nước với mật độ 5 con/m2. Để cá chình phát triển tốt, cần chọn địa điểm nuôi có nguồn nước sạch, vị trí yên tĩnh, thuận tiện trong giao thông, ít chịu ảnh hưởng của lũ lụt, có nguồn thức ăn dồi dào.
thiet ke be xi mang nuoi ca chinh bong cho nang suat cao hinh anh 1
Năng suất, lợi nhuận đem lại từ mô hình nuôi cá chình trong bể xi măng khá cao. Ảnh minh họa
Bể nuôi có diện tích 60m2, chia thành 2 phần với vách ngăn cố định bằng tường xi măng để phân loại cá trong quá trình nuôi. Tường bên trong bể láng nhẵn. Đáy bể không tráng xi măng mà được phủ một lớp đất sét dày 5 đến 10cm với độ sâu từ 1,8m đến 2m. Thành bể cao hơn mức nước cao nhất 50cm đồng thời có ống cấp nước đặt cách mặt bể 50cm, theo thông tin từ trang TTĐT Việt Linh.
Bể sau khi xây xong, ngâm phèn chua (100g/m2) 2 lần (2 ngày/lần), sau đó chà sạch bằng bẹ chuối, cấp và xả nước 3 đến 4 lần kết hợp với phơi nắng trong 2 tuần. Bên trên bể nuôi cần thiết kế mái che bằng tre và lưới trủ nhằm đảm bảo các yếu tố trong môi trường bể nuôi ổn định.
Người nuôi cần bổ sung vòi sục khí (10 vòi/bể), sàn ăn có kích thước 60cm x 80cm (bố trí gần nơi thoát nước), hệ thống máy bơm nước, máy tạo dòng và ống nhựa làm chỗ trú ẩn cho cá. Để hạn chế thất thoát cá vào mùa mưa, mỗi bể nuôi cần bố trí lưới bao ở bề mặt bể. Tóm lại, bể nuôi chình phải chắc chắn, đảm bảo các điều kiện cần thiết để cá chình phát triển tốt.
Phải có dòng nước chảy trong ao; phải nuôi bằng thức ăn công nghiệp chế biến riêng cho cá chình; phải được quản lý chăm sóc chu đáo; mật độ 20 - 25 con/m2, mật độ cao 300 - 350 con/m2. Bảo đảm các chỉ tiêu trên, năng suất có thể đạt được 30 - 45 tấn/ha (tức 3 - 4,5 kg/m2), năng suất cao có thể đạt 105 - 120 tấn/ha (tức 10,5 - 12 kg/m2).
Thức ăn nuôi cá chình phải có tỷ lệ đạm 45%, mỡ 3%, cellulose 1%, calci 2,5%, phosphor 1,3% cộng thêm muối khoáng, vi lượng, vitamin thích hợp. Nói chung tỷ lệ bột cá chiếm khoảng 70 - 75%, tinh bột 25 - 30% và một ít vi lượng, vitamin.
Thức ăn của cá có tỷ lệ bột cá khá cao, mỡ nhiều nên dễ hút ẩm, dễ mốc, phải chú ý bảo quản tốt, thời gian bảo quản không quá 2 tháng. Với cá giống, khi cho ăn, thức ăn phải được thêm nước, thêm dầu dinh dưỡng trộn đều làm thành loại thức ăn mịn mới cho cá ăn.
Các tỷ lệ thức ăn dầu, nước, phụ thuộc vào điều kiện nhiệt độ như sau: Sau khi trộn đều 5 phút cho cá ăn ngay, khoảng 2/5 số thức ăn nổi trên mặt nước, 3/5 rơi xuống khay đựng thức ăn là được. Tỷ lệ thức ăn so với trọng lượng cá chình ở các giai đoạn như sau:
Cứ sau mỗi tháng phân cỡ một lần, tách con lớn, con nhỏ nuôi riêng để cá phát triển đồng đều. Trước khi phân cỡ để cá nhịn ăn từ 1 - 2 ngày, đùa ao để cá bài tiết hết thức ăn trong bụng. Dùng vợt phân loại chứ không bắt bằng tay, theo thông tin từ Trung tâm Khuyến ngư Ninh Thuận.

Kỹ thuật nuôi cá chình thương phẩm trong ao đất

Cá chình là loài cá có tính thích ứng rộng với độ mặn nên có thể sống được ở nước mặn, nước lợ, nước ngọt. Cá thích bóng tối, sợ ánh sáng nên ban ngày chui rúc trong hang, dưới đáy ao, nơi có ánh sáng yếu, tối bò ra kiếm mồi di chuyển đi nơi khác. Da và ruột cá có khả năng hô hấp nên ở nhiệt độ <15 độ C, cá có thể sống được khá lâu khi da cá ẩm ướt. Trời mưa cá hoạt động rất khoẻ bò trườn khắp ao.

Cá chình là loài cá rộng nhiệt (từ 1 – 38 độ C), nhưng trên 12 độ C cá mới bắt mồi. Nhiệt độ phù hợp cho sinh trưởng là 13 - 30 độ C, thích hợp nhất là 25 - 27 độ C.
1. Ao nuôi
Diện tích trung bình 800 – 1.200 m2, mức nước trung bình 1,0 – 1,2 m. Bờ ao phải cao hơn mặt nước cao nhất trong ao ít nhất là 60cm. Ao không rò rỉ, nước trong sạch, pH>6,8, ít bị ảnh hưởng của nước mưa. Ðáy ao là cát hoặc cát bùn.
2. Mật độ thả
Chỉ thả giống sau khi tẩy dọn ao kỹ. Thời điểm thả từ trung tuần tháng 3 đến hạ tuần tháng 4, khi nhiệt độ nước > 13 độ C. Mật độ thả tùy thuộc vào điều kiện ao nuôi, phương thức nuôi và kích thước cá giống.
Nếu muốn đạt năng suất 15 tấn/ha, thả 12-15 con/m2 (cỡ 20g/con) hoặc 9-12 con/m2 (cỡ 50g/con). Nếu muốn đạt năng suất 100 tấn/ha, thả 300-350 con/m2.
3. Quản lý ao nuôi
3.1. Thức ăn và cho ăn
Có thể sử dụng 2 loại thức ăn là tươi và thức ăn công nghiệp. Cho ăn theo nguyên tắc 4 định: định chất, định lượng, định thời gian, định địa điểm.
+ Định chất: Thức ăn có độ đạm . Nếu dùng thức ăn tươi, cần phải tươi, rửa sạch, sát trùng kỹ sau đó cắt nhỏ mới đem cho ăn. Thức ăn nuôi cá chình phải có tỷ lệ đạm 45%, mỡ 3%, cellulo 1%, can xi 2,5%, phôtpho 1,3% cộng thêm muối khoáng, vi lượng, vitamin thích hợp. Nói chung tỷ lệ bột cá chiếm khoảng 70 - 75%, tinh bột 25 - 30% và một ít vi lượng, vitamin.
Thức ăn tươi sống là cá, trai, hến. Trước khi cho ăn, cần trần cho thịt cá gần chín sau đó dùng dây thép xâu xuyên lại treo trong ao. Cũng có thể bỏ cá vào trong lồng lưới sắt. Nếu cho ăn trai hến thì nên thái thành miếng nhỏ cho ăn.
Thức ăn tổng hợp nên lấy thức ăn động vật làm chính, thí dụ như bột cá, nhộng tằm. Cá Chình không ăn thức ăn chìm xuống dưới đáy bị ô nhiễm, do đó thức ăn tổng hợp không chìm, không bị rữa mới tốt. Nguyên liệu phụ có thể là khô dầu, các chất khoáng, vitamine, bột máu, men v.v... Để cho thức ăn tổng hợp lâu tan trong nước có thể dùng bột củ đậu, khoai lang đánh nhuyễn trộn với thức ăn đã nghiền sẵn.
Bổ sung dưỡng chất:
Thời gian tiêu hóa hết thức ăn của cá chình là 6 giờ. Thông thường người ta phải trộn thêm vào thức ăn cá chình một ít men bia, men tiêu hóa đường, elisa của khuẩn đơn bào và vi khuẩn sống trong ruột v.v…
• Men bia: là hỗn hợp các nấm men và bã bia sau khi đã sấy khô. Men bia chứa 40–50% protein thô, 1 lượng lớn vitamine nhóm B và kích tố sinh trưởng chưa biết tên. Có thể phối hợp với tỷ lệ 2 – 3%.
• Men đường mật: Chứa nhiều sinh tố nhóm B, thu được bằng cách phun trong chân không ở nhiệt độ thấp. Có mùi rất thơm, làm tăng tính ăn của cá Chình.
• Elisa của khuẩn đơn bào: thu được trong quá trình lên men đường củ cải, có vị thơm ngọt của men, cho cảm giác ngon, có nhiều các protein, chất khoáng, vitamine và nhiều chất kich thích sinh trưởng chưa biết tên. Chất này dễ tiêu hóa, cá Chình thích ăn. Hàm lượng protein thô trên 65%, chất béo thô trên 4,5%. Tỷ lệ pha trộn vào thức ăn khoảng 1 – 2%.
• Hỗn hợp các vi khuẩn sống bao gồm các chủng Lactobacillus.sp, Pediococcus acidilatici cùng với các chất nuôi cấy. Mỗi gam hỗn hợp này có khoảng trên 120.000 vi khuẩn sống. Nó có tác dụng tăng cường hấp thụ chất dinh dưỡng ở phần ruột non và gia tăng nhu động phần ruột già rút ngắn thời gian tiêu hóa thức ăn. Trong ruột cá những vi sinh vật này sẽ cạnh tranh với các vi sinh vật có hại về mặt không gian và chất dinh dưỡng làm cho chúng không phát triển được thậm chí bị tiêu diệt. Đặc biệt là loài Pediococcus acidilatici có tính kháng cự khá mạnh, sức ức chế vi sinh tạp có thể mạnh gấp 10 lần vi khuẩn Lactobacillus.
• Các chất bổ gan, mật:
Để tăng cường chức năng tiêu hóa, khả năng chịu đựng điều kiện chất lượng nước kém do nuôi với mật độ cao hoặc lạm dụng sử dụng hóa chất cần thiết phải bổ sung vào thức ăn một lượng thuốc bắc, axit mật (bile acid) và những chất bổ gan mật khác.
+ Sài hồ (Bupleurum chinense) có tính đắng, hơi hàn, có chứa nhiều steroidal saponins, các loại axit béo thăng hoa, có tác dụng kháng virus, diệt ký sinh trùng và giữ cho gan khỏi bị tổn thương.
+ Bản lam căn (Radix Isatidis ) tên tiếng Anh là Indigowoad Root có vị đắng, tính hàn. Thành phần chủ yếu gồm có Indican có tác dụng thanh nhiệt giải độc. Mỗi kg thức ăn bổ sung độ 10 – 15g thuốc này.
+ Axit mật (Bile acid): có thể xúc tiến hấp thụ mỡ, vitamine, cholesterol. Giải các chất độc trong thức ăn có nhiều mỡ để lâu ngày. Mỗi tấn thức ăn bổ sung khoảng 100g.
+ Định địa điểm: phải cố định vị trí đặt sàng cho ăn. Sàng cho ăn là khung hình vuông kích cỡ 90 x 50 cm căng lưới nilon, mắt lưới to nhỏ phụ thuộc vào kích cỡ cá. Nên đặt sàng ăn ở chỗ tối, kín gió.
+ Định lượng: Thức ăn tươi mỗi ngày cho ăn 20 – 30% tổng khối lượng cá trong ao; thức ăn chế biến hoặc thức ăn công nghiệp cho ăn 3 – 4% tổng khối lượng cá trong ao. Khi nhiệt độ thấp hoặc quá nóng vào mùa hè (trên 30oC) nên giảm bớt khẩu phần. Yêu cầu thức ăn thả xuống sau 20 phút phải ăn hết.
+ Định thời gian: cho ăn 1 lần vào lúc 9 giờ sáng.
5 phút sau khi trộn đều thức ăn với dầu, nước, cho cá ăn ngay, khoảng 2/5 số thức ăn nổi trên mặt nước, 3/5 rơi xuống khay đựng thức ăn là được.
Sàn cho ăn nên đặt ở vị trí giữa hoặc gần đáy, nhưng cũng có thể để sát tầng mặt để tiện quan sát hoạt động bắt mồi của cá. Bên trên sàn cho ăn nên che ánh nắng mặt trời. Cho ăn vào lúc 8 – 9 giờ sáng và 4 – 5 giờ chiều.
Đề phòng cá chình bỏ ăn, có thể dùng các phương pháp sau:
• Phải che nơi cho ăn.
• Cần tăng thêm điểm cho ăn để số cá thể tản mát vẫn có thể tìm được thức ăn.
• Có thể đưa thức ăn vào lồng có kích cỡ mắt lưới khác nhau để cá to không cạnh tranh thức ăn với cá nhỏ. 
• Nên có biện pháp phòng bệnh sớm đối với các loại bệnh như: bệnh đốm trắng, trùng bánh xe, sán lá Dactylogyrus v.v…Nếu những loài này ký sinh sẽ làm cho chúng yếu dễ tạo điều kiện con khác ăn thịt.
• Trong cùng một ao nên thả cá giống cùng cỡ, cá nhỏ rất dễ bị cá lớn truy đuổi, suốt ngày trốn tránh, không kiếm được thức ăn. Nên phân loại cá hàng tháng.
3.2. Lọc phân đàn
Định kỳ phân cỡ cá 1 tháng/lần, tách con lớn, con nhỏ nuôi riêng để cá đồng đều và chóng lớn. Trước khi phân cỡ để cá nhịn từ 1 - 2 ngày, lùa ao để cá bài tiết hết thức ăn trong bụng, dùng sàng nhẵn để phân loại cá, không dùng tay bắt cá.
3.3. Quản lý chất lượng nước
Ao nuôi năng suất 15 tấn/ha cần lắp bộ sục khí 1,5 – 2,0 kw cho 1000 m2. Căn cứ vào thời tiết cụ thể mà mỗi ngày mở máy 3 – 4 lần giúp cho ôxy phân phối đều trong các tầng nước. Trước khi cho cá ăn, nên mở sục khí đề phòng thiếu ôxy cục bộ do cá tập trung ăn tại một chỗ.
Nếu có điều kiện thì nuôi bằng nước chảy. Nếu nuôi trong ao nước tĩnh, cần thay 1/10 lượng nước trong ao khi nhiệt độ cao. Nên thay nước vào lúc trời mát. Khi có mưa to hoặc nước lũ, cần ngừng cho ăn, không thay nước. Trường hợp ao bị nước lũ tràn vào, nên dùng thuốc tím 1,5 ppm hoặc vôi sống 15-20 ppm để ổn định chất lượng nước. Không nên sử dụng nước lũ để thay nước ao.

Cá chình 'ăn là ghiền'

Người nào chưa từng ăn qua cá chình, khi thưởng thức sẽ nhớ ngay cái vị béo nhưng không ngậy, miếng thịt ngọt dai, lớp da dầy nhai thấy giòn giòn… ai đã ăn rồi chắc chắc sẽ nghiền.

Cá chình là loài đặc biệt so với tất cả các loài cá khác vì chúng có thể sống trong hai môi trường cả nước ngọt và mặn. Cá khi đến tuổi trưởng thành và vào mùa sinh sản chúng thường xuôi theo dòng chảy của các sông ra biển (tận ngoài vùng biển xa và sâu) để sinh đẻ, cho an toàn. Để rồi cứ sau mỗi mùa sinh sản những lớp cá chình con lại theo mẹ trở về các cửa sông, lội ngược dòng thác ghềnh lên sinh sống nơi đầu nguồn và phát triển cho tới lúc trưởng thành… Cái vòng đời theo quy luật nhằm bảo toàn giống nòi của loài cá chình này cứ nối tiếp nhau như thế qua nhiều thế hệ…

Cá chình nướng - Ảnh: nhà hàng Mangostine, khách sạn Bông Sen cung cấp 

Vào đầu mùa mưa cá chình thường tập trung ở các khe suối, những người làm nghề khai thác cá chình nắm được quy luật này thường canh đúng vào mùa di chuyển ngược dòng từ biển về suối để thả lưới bắt cá con bán cho người nuôi. Nhờ thế mà trong những năm gần đây món ăn đặc sản cá chình có nhiều trong các nhà hàng nơi thành phố.

Cá chình núi bao giờ thịt cũng thơm ngon, dai, da giòn hơn so với cá chình nuôi. Đặc biệt cá sống trên các cửa sông, khe suối nên có một bộ xương rất chắc khỏe, chứa một lượng kẽm magie rất có lợi cho phụ nữ mang thai và đang cho con bú. Thịt cá chình núi hay nuôi đều rất giàu chất đạm, dùng thịt này nấu cháo cho trẻ con rất tốt.

Cá chình rất dễ chế biến, chỉ việc chọn con nào còn sống (cá chình khi đã chết mùi rất khó chịu, và ăn thịt không dai, ngon), làm sạch, cắt khúc ướp với chút muối ớt, hành, tiêu cho thấm. Nướng những khúc cá giữa trên than hồng khoảng từ 5 - 7 phút cho thơm vàng là được, chừa lại khúc đầu và đuôi nấu lẩu măng chua rất hợp gu. Khi ăn cá chình nướng chấm kèm muối ớt chanh, hương vị sẽ không lẫn vào đâu được.

Người nào chưa từng ăn cá chình, khi thưởng thức sẽ nhớ cái vị béo nhưng không ngậy, thịt ngọt dai, lớp da dầy nhai thấy giòn giòn… ai đã ăn rồi chắc chắc sẽ nghiền. Riêng với món lẩu cá chình thì ngon tuyệt. Dùng chút nước xương heo để nấu (nấu nước dùng heo ngon hơn nước dùng gà), và chỉ cần nêm thêm chút gia vị hành, tiêu, bột nêm, đường thả măng chua, cá vào nấu sôi…nhúng rau ăn kèm với bún.

Ở Sài Gòn không khó để bạn có thể tìm và thưởng thức món ngon cá chình. Các nhà hàng thường nhập cá về từ đầu mối, thả trống trong bể, thực khách sẽ tự tay chọn cá và nhà hàng sẽ chế biến theo yêu cầu với nhiều các món ngon khác nhau.

Đậm đà cá chình nướng muối ớt xanh

Cá chình nướng có lớp da đen bóng, thịt mềm nhưng không bở, ăn dai dai. Vị ngọt của thịt hòa trong vị đậm đà hơi cay của muối ớt xanh, đem lại cảm giác ngon miệng.

Cá chình là loài đặc biệt, có thân hình tròn và thuôn dài. Cá không có xương nhỏ, chỉ có một xương sống chạy dọc theo chiều dài của thân. Cá có vẻ bề ngoài giống cá nhệch nhưng to và ngắn hơn, da có màu đen bóng. Ngoài là món ăn ngon, cá chình còn rất bổ dưỡng, có tác dụng với những người bị bệnh đau cột sống, bị bệnh cao huyết áp, các bệnh liên quan đến xương khớp...
Cá chình là loài cá cho thịt ngọt, bổ dưỡng được nhiều người ưa thích.
Cá chình thịt thơm và bổ dưỡng nên được chế biến thành nhiều món ăn ngon như: cá chình nấu dưa chua, tiềm thuốc bắc hay nướng lá chanh... Nhưng món ăn đậm đà lại giữ được vị ngọt của thịt cá thì phải kế đến món cá chình nướng muối ớt xanh. Gia vị của muối ớt thấm vào trong từng thớ thịt cá mang đến món ăn thơm ngon, béo nhưng không hề cho cảm giác ngấy.
Cá chình vừa mới bắt lên, còn tươi roi rói, chọn con cỡ bằng cổ tay là được. Cá chình là loại cá da trơn nên bạn phải biết cách làm sạch nhớt, có thể dùng tro bếp, lá sả để chà hết nhớt bên ngoài và rửa lại bằng nước sạch. Cá làm sạch ruột, thái thành từng khúc vừa ăn, rửa lại bằng nước sạch và để ráo. Cho muối, ớt xanh, đường vào cối giã nát. Ướp cá với muối ớt đã giã, để cá trong khoảng 15 phút cho cá thấm.
Ăn kèm với cá chình nướng là các loại rau thơm và chén muối ớt xanh.
Cá sau khi ướp cho lên vỉ và nướng chín trên bếp than hồng. Trong quá trình nướng nhớ đều tay để thịt cá được chín đều và không bị cháy. Dưới lớp da cá là một lớp mỡ mỏng, khi nướng lớp mỡ chảy ra tạo thành những tiếng xèo xèo cùng hương thơm tỏa ra rất quyến rũ. Khi lớp da cá bên ngoài săn lại, thịt cá chuyển màu vàng là cá đã chín, cho ra đĩa. Ăn kèm với cá chình nướng là các loại rau thơm để tăng thêm hương vị.
Gắp một miếng cá, chấm vào chén muối ớt xanh và thưởng thức, cái vị đậm đà của món ăn hòa trong từng thớ thịt cá dai dai, béo, cùng vị ngọt tự nhiên của thịt cá rất ngon và lạ miệng. Trong những ngày đầu năm, khi đã chán ngán với những món ăn đầy thịt mỡ, thì cá chình nướng muối ớt xanh là một món ngon giúp bạn đổi vị cho các thành viên trong gia đình.
Ở Sài Gòn, bạn có thể ghé đến quán Khoái ở địa chỉ: 3 Lê Quý Đôn, phường 6, quận 3 để thưởng thức món ăn thơm ngon này.

Nuôi cá chình bông bằng bể xi măng

Để đa dạng hóa đối tượng vật nuôi, tạo việc làm, tăng thêm thu nhập cho người dân, Phòng Kinh tế - Hạ tầng huyện Tuy An đã chủ trì thực hiện dự án Nhân rộng mô hình nuôi cá chình bông thương phẩm bằng ao xi măng ngoài trời do kỹ sư Ngô Thị Mỹ Hạnh, cán bộ quản lý môi trường và nguồn lợi thủy sản xã An Ninh Tây (Tuy An) làm chủ nhiệm.


Phân cỡ cá lớn, nhỏ nuôi riêng để chình phát triển đồng đều - Ảnh: CTV

KỸ THUẬT NUÔI ĐƠN GIẢN

Theo kỹ sư Ngô Thị Mỹ Hạnh, cá chình bông có khả năng sống được ở nhiều thủy vực nước mặn, nước lợ, nước ngọt. Cá thích bóng tối nên ban ngày thường chui rúc trong hang, dưới đáy bể; tối mới bò ra đi kiếm ăn và di chuyển nơi khác. Những lúc trời mưa, cá thường hoạt động mạnh. Cá chình bông phát triển tốt ở nhiệt độ từ 25 đến 27ºC, hàm lượng oxy hòa tan 2 đến 5mg/l. Là loài ăn tạp, nguồn thức ăn tự nhiên của cá chình bông là tôm, cá con, động vật đáy và các sinh vật thủy sinh. Khi còn nhỏ, thức ăn chính của chúng là động vật phù du và trùn ít tơ.

Cá chình bông là loài di cư: Cá mẹ đẻ trứng ở biển sâu, cá con sau đó trôi dạt vào vùng cửa sông kiếm ăn và lớn lên. Đến lúc trưởng thành, cá lại về biển đẻ trứng. Chính vì tập tính này mà hiện nay, việc sinh sản nhân tạo cá chình còn rất khó khăn và nguồn cá giống chủ yếu vẫn được đánh bắt trong tự nhiên. Ở Phú Yên, cá chình bông con thường được đánh bắt ở sông Bàn Thạch (Đông Hòa), đập Tam Giang (Tuy An).

Theo kinh nghiệm của kỹ sư Ngô Thị Mỹ Hạnh, để chuẩn bị nuôi cá chình bông, đầu tiên, cần làm tốt khâu chọn giống. Cỡ giống tốt nhất khoảng 100g/con, khỏe mạnh, đồng đều, màu sắc tươi sáng, không bị bệnh. Giống mua về để ổn định nhiệt độ trong khoảng 15 phút, sau đó thả vào trong bể nhỏ bơm sẵn nước (30cm), sục khí mạnh; tắm nhanh qua nước muối (30‰) từ 3 đến 5 phút rồi thả vào nơi đầu nguồn nước với mật độ 5 con/m2. Để cá chình phát triển tốt, cần chọn địa điểm nuôi có nguồn nước sạch, vị trí yên tĩnh, thuận tiện trong giao thông, ít chịu ảnh hưởng của lũ lụt, có nguồn thức ăn dồi dào. Bể nuôi có diện tích 60m2, chia thành 2 phần với vách ngăn cố định bằng tường xi măng để phân loại cá trong quá trình nuôi. Tường bên trong bể láng nhẵn. Đáy bể không tráng xi măng mà được phủ một lớp đất sét dày 5 đến 10cm với độ sâu từ 1,8m đến 2m. Thành bể cao hơn mức nước cao nhất 50cm đồng thời có ống cấp nước đặt cách mặt bể 50cm.

Bể sau khi xây xong, ngâm phèn chua (100g/m2) 2 lần (2 ngày/lần), sau đó chà sạch bằng bẹ chuối, cấp và xả nước 3 đến 4 lần kết hợp với phơi nắng trong 2 tuần. Bên trên bể nuôi cần thiết kế mái che bằng tre và lưới trủ nhằm đảm bảo các yếu tố trong môi trường bể nuôi ổn định. Người nuôi cần bổ sung vòi sục khí (10 vòi/bể), sàn ăn có kích thước 60cm x 80cm (bố trí gần nơi thoát nước), hệ thống máy bơm nước, máy tạo dòng và ống nhựa làm chỗ trú ẩn cho cá. Để hạn chế thất thoát cá vào mùa mưa, mỗi bể nuôi cần bố trí lưới bao ở bề mặt bể. Tóm lại, bể nuôi chình phải chắc chắn, đảm bảo các điều kiện cần thiết để cá chình phát triển tốt.

NHÂN RỘNG MÔ HÌNH

Theo kỹ sư Ngô Thị Mỹ Hạnh, huyện Tuy An nói chung, xã An Ninh Tây nói riêng có điều kiện thích hợp cho hoạt động nuôi trồng thủy sản. Những năm qua, huyện Tuy An chủ yếu phát triển các đối tượng nuôi nước lợ, đặc biệt là tôm thẻ chân trắng. Nghề này mang lại lợi nhuận cao cho người nuôi nhưng vẫn tồn tại nhiều hạn chế: rủi ro, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường. Với mục đích đa dạng hóa đối tượng vật nuôi, tăng thêm thu nhập, nâng cao đời sống cho người dân, huyện Tuy An đã thực hiện nhân rộng mô hình nuôi cá chình bông thương phẩm trong bể xi măng ngoài trời.

Theo ông Nguyễn Văn Mỹ, Phó phòng Kinh tế - Hạ tầng huyện Tuy An: “Hiện nay, mô hình nuôi cá chình bông thương phẩm đã được nhân rộng ra nhiều hộ gia đình ở Tuy An. Mô hình này bước đầu đã cho thấy hiệu quả khả quan: Chình phát triển tốt, ít dịch bệnh, giá cả ổn định, đầu ra rộng mở. Đây hứa hẹn sẽ là vật nuôi mang lại nhiều lợi nhuận, góp phần ổn định đời sống của người dân”.

Ông Hồ Anh (An Ninh Tây, Tuy An), 1 trong 3 hộ dân tham gia nhân rộng mô hình nuôi cá chình bông cho biết: “Cá chình bông là vật nuôi mới, còn nhiều lạ lẫm với người dân chúng tôi. Ban đầu, khi tiếp cận với vật nuôi này, chúng tôi cũng gặp nhiều khó khăn nhưng dưới sự hướng dẫn tỉ mỉ của các cán bộ kỹ thuật, hiện tại, “trình độ” nuôi cá chình của các hộ dân chúng tôi phần nào đã vững vàng

Tự tin vào tay nghề của mình nên năm sau tôi sẽ mở thêm một ao nữa. Với giá bán 400.000 đồng/kg như hiện nay, người dân chúng tôi sau một vụ nuôi 18 đến 24 tháng có thể thu lãi được 70.000 đến 80.000 đồng/con. Vụ này tôi chỉ nuôi 300 con để làm quen với kỹ thuật nuôi, nhưng khi đã nắm vững, tôi sẽ nuôi theo kiểu gối đầu để năm nào cũng có chình xuất bán. Như vậy lợi nhuận sẽ nhiều hơn”.

Theo thiết kế mô hình ban đầu, cả xã An Ninh Tây có 3 hộ tham gia nuôi cá chình bông thương phẩm nhưng hiện nay, chỉ riêng thôn Bình Thạnh (An Ninh Tây) đã có 5 hộ nuôi, nhiều hộ có vốn cũng đang dự định nuôi mới hoặc tăng thêm số ao nuôi. Do có lợi thế gần biển, nguồn thức ăn cho cá chình dồi dào mà kỹ thuật chăm sóc cũng không quá phức tạp nên trong thời gian tới, quy mô nuôi cá chình cũng như số hộ tham gia nuôi ở huyện Tuy An sẽ còn tăng lên.

Kỹ Thuật Nuôi Cá Chình Bông Trong Bể Xi Măng

Qua 5 tháng nuôi, chỉ vài tháng đầu chình có chết một ít do chưa thích nghi, từ tháng 3 trở đi rất ổn định, lớn bình thường, chưa thấy bệnh tật gì. Anh Nguyễn Văn Nghịêp dự tính sau một năm chình sẽ đạt trung bình 1,2kg/con. Nếu với giá như hiện nay 250.000 - 320.000đ/kg thì anh thu về khoảng 300 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí thức ăn, công lao động, còn lại khoảng 200 triệu đồng/một con số không nhỏ đối với gia đình thuần nông như anh. Anh Nghiệp cho biết: cá chình thương phẩm không sợ không có đầu ra, có bao nhiêu các đại lý cũng mua hết, chủ yếu để xuất khẩu sang Hồng Kông, Đài Loan.


Thường trong mùa mưa - tháng 10, 11 - chình con giống bắt được trong tự nhiên nhiều nên giá hạ hơn mùa nắng. Thả giống trong mùa này chình dễ thích nghi, ít rủi ro hơn.

Sáng sớm khi cho nước vào bể, dưới giàn phun mưa, mình vàng ươm có đốm nâu tụ tập lại thành từng đàn như để hấp thụ chút không khí trong lành. Con nào con nấy sàn sàn như nhau, to hơn ngón chân cái một chút, có một số ít to bằng cái liềm. Anh Nguyễn Văn Nghiệp (Thôn 3 HTX nông nghiệp Bình Nghi 3, Tây Sơn, Bình Định) chủ nuôi cho biết: chình thả nuôi được 5 tháng nay, con lớn được khoảng 0,4kg. Cứ đà này đừng có dịch bệnh gì chừng 7 tháng nữa sẽ xuất bán chình thương phẩm, khả năng chình đạt trọng lượng 1,1-1,2kg/con.

Một dịp đến Ninh Thuận tình cờ anh Nghiệp thấy được mô hình nuôi chình bông rất có hiệu quả trong bể xi măng, anh về mạnh dạn đầu tư hơn 30 triệu đồng xây bể xi măng trong vườn nhà, có diện tích chừng 100 m vuông - đáy bể đổ bêtông cốt thép, thành bể xây gạch cù, cao chừng 1,8m. Đáy bể có ống xả thải, trong bể có xây hòn non bộ, đáy rỗng ngập trong nước, trong đó có thả chà (cành cây khô) để chình ẩn náu, có non bộ để vừa đẹp vừa là giàn mưa tạo oxy cho chình. Rải rác một bên bể có đặt những ống bêtông rỗng để chình cư trú. Mực nước nuôi trong bể luôn duy trì từ 1,1-1,2m. Nước bể nuôi ở dạng tĩnh nên ngoài tạo mưa từ hòn non bộ anh phải lắp thêm giàn phun mưa để tạo thêm oxy mỗi buổi sáng. Trên bể có mái che, có lưới để giảm bức xạ, xung quanh có che chắn để ánh nắng không rọi vào nhiều.

(Hoàng Lân KHPT, 14/4/2006)

Nước cung cấp cho bể nuôi lấy từ con suối tự nhiên bơm vào. Để tránh tạp chất gây ô nhiễm, anh cho qua một bể lọc (có cát, than, sỏi ...) hàng ngày có một vài lần bơm phun mưa tạooxy từ nước suối tự nhiên hay từ chính bể nuôi bơm tuần hoàn. Phân thải, thức ăn thừa lắng ở đáy mỗi ngày anh đều dùng bàn cào gom lại và xả ra ngoài để giữ môi trường nước nuôi trong lành.

Bể anh đang nuôi 1.000 con, giống mua gom từ các đại lý mua chình thịt trong tỉnh. Mỗi con trung bình 100 g. Tổng số tiền đầu tư con giống là 25 triệu đồng. Hiện nay chưa cho chình bông sinh sản nhân tạo, chỉ khai thác từ trong tự nhiên.

Nuôi chình không khó, nên giữ cho nước nuôi trong lành, tạo thêm oxy, cho ăn đầy đủ - chình tiêu thụ thức ăn không nhiều lắm. Mỗi ngày anh Nghiệp cho ăn chừng 4kg cá tươi mua ở chợ về (giá 50.000 đồng). Cá chỉ lọc lấy thịt, cho ăn vào buổi tối. Thời gian này là lúc chình ra khỏi hang đi ăn khắp bể, ban ngày thì chui vào hang ẩn nấp. Ngoài ra còn cho ăn nhái bắt ngoài tự nhiên. Tuy vậy, nếu nuôi đại trà, quy mô lớn hơn thì nguồn giống sẽ hiếm. Như vậy, vấn đề đặt ra là làm sao để chình sinh sản nhân tạo được thì mới phát triển chình bông nuôi đại trà, tăng thu nhập cho người nông dân

Kỹ thuật nuôi cá chình hoa thương phẩm quy mô hộ gia đình


1. Đặc điểm sinh học của cá Chình
      Tên chính thức: Cá chình hoa A. marmorata Quoy&Gaimara, 1824.
      a. Mô t hình thái
      Thân dài, dạng rắn, phía sau dẹp bên. Chiều dài đầu lớn hơn khoảng cách từ khe mang đến khởi điểm vây l­ưng; bằng, lớn hoặc nhỏ hơn một chút với khoảng cách giữa khởi điểm vây lưng và khởi điểm vây hậu môn.
      Cá có màu thẫm phía lư­ng, sáng màu phía bụng. Đặc biệt trên thân có nhiều hoa đen nên gọi là cá Chình hoa hay cá Chình bụng.
      b. Đặc điểm môi tr­ường:
      Cá Chình là loài cá có tính thích ứng rộng với độ mặn, cá có thể sống được ở nư­ớc mặn, nư­ớc lợ, nư­ớc ngọt. Cá thích bóng tối, sợ ánh sáng nên ban ngày chui rúc trong hang, d­ưới đáy ao, nơi có ánh sáng yếu, tối bò ra kiếm mồi di chuyển đi nơi khác.
      Độ pH: từ 7 – 8,5. Cá Chình là loài cá có phạm vi thích ứng nhiệt độ rộng. Nhiệt độ từ 1-38oC cá đều có thể sống đư­ợc, nh­ưng trên 15oC cá mới bắt mồi. Nhiệt độ sinh trưởng là 13-30oC, thích hợp nhất là 25-29oC
       Độ trong: Đảm bảo n­ước trong sạch.
      Ngoại cảnh: Cá chình là loài có nhu cầu về ôxy cao đặc biệt trong điều kiện nuôi cần cá lớn nhanh. Cung cấp ôxy hoà tan cho cá bằng máy quạt nước hay máy sục khí. Th­ường xuyên có chế độ thay n­ước hay trao đổi nước để duy trì chất lư­ợng n­ước: pH, ôxy hoà tan, nhiệt độ nước, cần đư­ợc kiểm tra thư­ờng xuyên.
      c. Tập tính ăn và sinh tr­ưởng
      Cá Chình hoa thuộc loài cá dữ. Là loài cá ăn tạp, trong tự nhiên thức ăn là các loại động vật có x­ương sống, cá con, tôm, động vật đáy nhỏ và côn trùng thuỷ sinh.
      Bình th­ường cá có chiều dài 50-70 cm ứng với khối lượng từ 0,3-1,1kg. Cá biệt có những cá thể đạt chiều dài trên 1m với khối l­ượng 7-12kg.
      Sau 2 năm ương nuôi, cá đạt kích cỡ 50-200g. Nuôi thương phẩm nếu thức ăn tốt sau 1 năm nuôi có thể đạt cỡ 500-600g/con
      Khi còn nhỏ tốc độ sinh trưởng của cá trong đàn t­ương đương nhau, nhưng khi đạt chiều dài hơn 40cm con đực lớn chậm hơn con cái.
      d- Tập tính sinh sản      
      Cá chình là loài cá di cư­, cá mẹ đẻ ở biển, cá con sau khi nở trôi dạt vào bờ biển, cửa sông, vùng nư­ớc ngọt kiếm mồi và lớn lên. Khi trưởng thành, thành thục sinh dục cá lại di c­ư ra biển sâu để đẻ trứng.
      Việc sinh sản nhân tạo cá Chình đến nay ch­ưa có nư­ớc nào nghiên cứu thành công.
      Tất cả giống đều dựa vào việc khai thác tự nhiên ngoài cửa sông hoặc ven biển, ở n­ước ta cá Chình phân bố nhiều từ Quảng Bình vào đến Bình Định, đặc biệt là vùng hồ Châu Trúc ở Bình Định có cá Chình phân bố, hàng năm cung cấp một lượng cá giống quý cho nhân dân trong vùng để nuôi.
      2- Thiết kế xây dựng bể nuôi:
      - Hệ thống bể nuôi: 10-20m3 (hai ngăn); bể lắng, lọc nư­ớc 10m3, bể chứa 5m3. Bể nuôi có mái che mư­a, nắng. Máy bơm nước 0,75kw, máy sục khí 250w;
      Yêu cầu:
      - Gần nguồn nước trong sạch, chủ động để có thể thay dễ dàng. Có nguồn điện ổn định, có nguồn cung cấp thức ăn cho cá Chình.
      - Xây dựng hai bể nuôi trở lên, tuỳ theo quy mô nuôi mà lựa chọn thể tích bể xây. Bể được xây chắc chắn, an toàn;
      Có van xả để rửa bể, thay kiệt nư­ớc đáy. Đảm bảo nước chảy tuần hoàn.
      - Đối với bể đã sử dụng, dùng thuốc tím với nồng độ 10ppm rửa toàn bộ bể với thời gian 15-20phút. Sau đó lấy nư­ớc sạch rửa kỹ lại toàn bộ bể để cho sạch hết thuốc tím. Để khô bể một ngày rồi mới đư­a nư­ớc vào theo yêu cầu.
      - Với bể xây mới thì phải có thời gian ngâm lá, cây chuối 15 ngày (làm như ngâm bể nước ăn). Sau đó chhuẩn bị tương tự như bể đã sử dụng.
      3. Nguồn giống:
      - Các tiêu chí để chọn giống cá Chình hoa:
+ Cá giống nhập về phải khoẻ mạnh. Đồng đều về quy cỡ.
        + Da bóng có màu sắc sáng nhuận, nhiều nhớt.
        + Không có biểu hiện bệnh như­ nấm, xây sước...vận động nhanh nhẹn.
        + Mình cá có màu nâu đen, điểm những chấm đen nhỏ.
        + Không nhập cá bị dị hình, khuyết tật hoặc cong thân.
        + Không nhập cá do đánh điện, do câu: Biểu hiện là cá do đánh điện thì dị hình hoặc cong thân…, cá do câu thì hay bơi lùi. Cá bị câu thì l­ưỡi còn mắc ở trong miệng nên cá không ăn được gầy mòn rồi chết.
         + Chất l­ượng cá đảm bảo yêu cầu, cá đư­ợc luyện ép ­ương nuôi phù hợp với điều kiện nuôi nhân tạo: Biểu hiện rõ nhất là cá dạn với người ít sợ sệt, bơi lội tự nhiên trên mặt n­ước để kiếm mồi. Nhanh chóng bắt mồi
      Nguồn cá giống từ Thạch Hãn – Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế và Nha Trang - Khánh Hòa, song theo kinh nghiệm thì cá tại sông Thạch Hãn - Quảng Trị là có tốc độ tăng trưởng và kích cỡ là tốt nhất.
      3.1.  Thả giống.
      - Thời vụ thả giống: từ tháng 6,7 hàng năm
      - Kích cỡ: Sử dụng mẫu cá: 20-30con/kg. Bố trí thả đồng đều về quy cỡ, hạn chế sự chênh lệch về kích cỡ cá nuôi trong cùng một bể.
      - Mật độ thả: 30c/m3
      - Tr­ước khi thả tắm cho cá: Dùng 1 trong 3 loại hoá chất sau để tắm:
      + KMnO4: 1 - 3ppm;
      + CuSO4: 0,3 - 0,5ppm;
      + Formalin: 1 - 3ppm.
Hoặc ngâm cá trong dung dịch nước muối 15 - 30‰ từ 15-30 phút.
      4. Kỹ thuật nuôi:
      4.1. Chăm sóc và quản lý
      a. Chăm sóc:
      - Cho ăn: Làm sàn cho cá ăn là khung hình vuông làm bằng tre hoặc ống nhựa, kích cỡ phù hợp rộng 01m2, đáy căng bằng l­ưới cư­ớc. Khi cho ăn thì dừng bơm nư­ớc.
      - Thức ăn: Khi cá mới nhập về thì cho ăn bằng giun Quế, là thức ăn ư­a thích của cá Chình. Sau đó rèn cho ăn bằng cá tạp tươi (không dùng nội tạng), sử dụng phi lê băm nhỏ cho vừa miệng cá. Để tránh nhiễm các bệnh ký sinh từ cá tạp, nhúng cá qua n­ước muối sau đó xả lại nước ngọt rồi đem cho cá ăn. Khi cá còn nhỏ, thức ăn đư­ợc băm nhỏ ra để cá dễ ăn. Muốn quản lý thức ăn hàng ngày hiệu quả cần lư­u ý một số vấn đề sau:
      Thức ăn phải t­ươi, sạch, vừa cỡ mồi. Không sử dụng thức ăn đã bị ươn để lâu ngày. Đặc biệt là nguồn thức ăn là cá biển thì phải chọn nguồn cá t­ươi, đư­ợc bảo quản tốt để lâu ngày không bị ươn. Nếu có mùi là cá không ăn.
      Thức ăn không để quá d­ư thừa, thư­ờng lấy mức cá cho ăn trong 1gìơ làm chuẩn, điều chỉnh l­ượng thức ăn sao cho cá ăn hết trong 1giờ là vừa. Nếu cá không ăn hết thì phải chuyển hết thức ăn ra ngoài, vệ sinh sàn ăn. Do cá lớn dần nên cách 10 ngày tăng lượng thức ăn lên 1 lần. 
      Phải cho cá ăn đúng giờ. Không nên thay đổi thức ăn một cách đột ngột mà phải thay đổi từ từ. Cá Chình không thích ánh sáng nên ban ngày đa số cá th­ường tụ tập vào một chỗ ở góc bể. Ban đêm mới bơi tản ra để kiếm mồi vì vậy cá th­ường ăn mạnh vào thời điểm chiều tối và đêm.
      - Chế độ cho ăn: ngày 2-3 lần, tổng lượng thức ăn trong ngày từ 10-20% trọng l­ượng cơ thể. Điều chỉnh thức ăn cho phù hợp với điều kiện thực tế của cá. Đảm bảo cho ăn đúng giờ, đủ lần để tạo tập tính cho cá: 17h - 22h - 3h.
     - Phương pháp rèn cho cá ăn:
      Việc rèn cho cá ăn là một biện pháp kỹ thuật tuy đơn giản nh­ưng quan trọng. Vì rèn không đúng cách thì sẽ mất nhiều thời gian cá mới ăn thức ăn mới.
     Cá Chình có tính rát, ban đầu cho thức ăn mới xuống cá sợ và bơi lội lung tung. Vì vậy trước tiên vẫn cho thức ăn chúng ư­a thích là giun Quế xuống trước.
      Sau đó cho một ít thức ăn mới xuống thì cá quen dần đỡ sợ. Khi cá không còn phản ứng sợ với thức ăn mới chỉ là b­ước đầu. Việc cá ăn thức ăn mới còn là b­ước tiếp theo. Dùng nư­ớc dịch của giun Quế tẩm vào thức ăn mới. Nước dịch giun đã quen nên việc cá chuyển sang ăn thức ăn mới có mùi dịch giun là rất thuận lợi, cá sẽ nhanh chóng tiếp cận và bắt mồi. Dần dần sau đó khi cá đã thực sự quen với thức ăn mới thì không cần tẩm n­ước dịch giun nữa. Như vậy việc rèn cho cá ăn coi như­ đạt đư­ợc yêu cầu.
      b. Quản lý:
      - Hệ sinh thái bể nuôi tuần hoàn khác với hệ sinh thái nuôi trong ao, bản thân cơ chế sinh học của hệ thống nuôi tuần hoàn không thể tự điều chỉnh nh­ư trong ao. Do vậy, việc đảm bảo chất lượng n­ước trong quá trình nuôi là rất cần thiết.
      - Nhiệt độ <150C thả ống nhựa phi 90, dài 50cm cho cá trú đông.
      - Theo dõi kiểm tra các yếu tố môi trường hàng ngày nh­ư: nhiệt độ, oxy, pH, độ trong của nư­ớc. Bằng máy và các dụng cụ đo đơn giản.
      - Hàng ngày xi phon đáy bể, định kỳ 3 ngày một lần dùng trổi nhựa cán dài làm vệ sinh sạch đáy bể. 
      - Tuỳ theo chất thải ra nhiều hay ít mà làm vệ sinh màng lọc để màng không bị bí. Tuỳ theo chất l­ượng nư­ớc (phụ thuộc mức độ tiêu thụ thức ăn của cá) mà có thể thay 20-30% lượng nư­ớc trong bể. Đảm bảo duy trì nư­ớc sạch.
      - Thư­ờng xuyên theo dõi những dấu hiệu, biểu hiện bất thường, để có những xử lý kịp thời như­: sức khoẻ của cá, biểu hiện bệnh hoặc cá có hiện tượng cắn nhau là do thiếu thức ăn và nơi cá tập trung quá dày.
      - Những ngày đầu cá chư­a quen môi trường nên có hiện t­ượng một số cá thể trư­ờn bò theo thành bể lên trên mặt n­ước. Kiểm tra hệ thống lưới chắn trên thành bể phải chắc chắn để đề phòng cá tr­ườn ra ngoài. Thường thì hiện t­ượng này kéo dài khoảng từ 3-5 ngày. Khi cá đã quen môi trường nuôi mới rồi thì hiện t­ượng này sẽ chấm dứt.
      - Cho cá ăn vừa đủ no không cho ăn quá no vào 1 bữa, hay trong một ngày, dẫn tới cá sẽ bỏ bữa tiếp theo và có thể cả ngày hôm sau. Nh­ư vậy sẽ ảnh hư­ởng tới hệ tiêu hoá của cá dẫn đến tốc độ sinh tr­ưởng không đảm bảo. Sau mỗi lần cho cá ăn kiểm tra ngay lượng thức ăn trong sàn để có cơ sở cân đối điều chỉnh thức ăn cho phù hợp.
      - Từ khi bắt đầu quá trình nuôi đến tháng thứ 3 thì bắt đầu tiến hành kiểm tra tốc độ sinh tr­ưởng và phân lọc cỡ cá: tách riêng con lớn, con nhỏ theo từng bể cho đồng đều về quy cỡ.
      Thời gian tiếp theo cứ hai tháng tiến hành làm một lần. Dùng vợt bắt cá không bắt bằng tay để tránh mất nhớt. Nếu không làm tốt việc này dẫn đến cá dễ bị mắc bệnh, gây sốc và sẽ bỏ ăn vài ngày sau mới ăn trở lại. Ảnh hưởng đến tốc độ sinh trư­ởng.
      5. Thu hoạch
      - Tháo nước trong bể chỉ để còn khoảng 20cm n­ước. Dồn cá vào một góc, chuẩn bị vợt xúc cá đưa vào xô hoặc tráng nhỏ. Đến khi gần hết thì có thể mở van tháo cạn nư­ớc để bắt sạch.
      - Cá Chình bơi rất nhanh nên người thực hiện phải thao tác mau lẹ, như­ng không được làm ẩu hoặc mạnh tay dẫn đến cá bị xây x­ước hoặc tổn thư­ơng giảm chất lư­ợng thư­ơng phẩm./.

Hiện tại mình đang có số lượng cá chình thịt cần bán, hãy alo để mua cá chình Châu Trúc: 01688809015(Ms Oanh).